Trong Việt Nam, ghép thận đã được áp dụng trong khoảng 30 năm và nhiều bệnh viện tuyến tỉnh đã có khả năng thực hiện quy trình mổ ghép thận. Tuy nhiên, nghiên cứu về vai trò của gen CYP3A5 vẫn còn hạn chế do đây là một kỹ thuật phức tạp và sâu sắc, chỉ có thể được thực hiện tại các trung tâm y tế lớn. Khái niệm về cá thể hóa điều trị tacrolimus sau ghép thận vẫn còn rất mới ở Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi mong muốn thay đổi quan điểm về điều trị ức chế miễn dịch sau ghép thận bằng việc tập trung vào xác định liều thuốc tối ưu cho từng bệnh nhân dựa trên đặc điểm riêng của họ và xây dựng một phương pháp quản lý bệnh nhân ghép thận mới.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về gen CYP3A5 chỉ mới bắt đầu trong vòng 10 năm trở lại đây. Theo tìm hiểu của chúng tôi, chỉ có hai công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đã được công bố trên các tạp chí nghiên cứu của Việt Nam. Nghiên cứu đầu tiên trên quần thể người Việt Nam thuộc dân tộc Kinh được thực hiện bởi tác giả Vũ Phương Nhung (2020) ghi nhận tỷ lệ cao nhất của biến thể CYP3A53 là 67,5%. Kết quả này cho thấy tỷ lệ này thấp hơn so với quần thể người da trắng, nhưng tương đương với quần thể Nam Á và Đông Á. Nghiên cứu đầu tiên về cá thể hóa liều tacrolimus ở bệnh nhân ghép thận theo kiểu gen CYP3A5 là của tác giả Đỗ Tất Cường (2019). Tác giả này đã nghiên cứu trên 40 bệnh nhân ghép thận và 200 người tình nguyện khỏe mạnh. Kết quả cho thấy khoảng 60% người mang ít nhất một allele CYP3A51 và không có sự khác biệt về nồng độ thuốc giữa các nhóm gen. Tuy nhiên, chưa có sự khác biệt được báo cáo giữa các nhóm gen sau một thời gian dài sau ghép thận.
Quan trọng là nghiên cứu về gen CYP3A5 đã được tiến hành trên nhiều quần thể chủng tộc khác nhau trên thế giới. Có khoảng 9 allele của CYP3A5 đã được xác định, trong đó CYP3A51 và CYP3A53 là phổ biến nhất và được nghiên cứu nhiều nhất. Tỷ lệ các kiểu gen CYP3A5 khác nhau tùy thuộc vào chủng tộc. Ví dụ, ở dân da trắng, kiểu gen CYP3A5*1/1 chiếm 1%, CYP3A51/3 chiếm 13-17%, và CYP3A53/*3 chiếm 82-86%. Trên quần thể người da đen, tỷ lệ kiểu gen này là 37-45%, 40-54%, và 9-15% tương ứng. Các nghiên cứu trên các quần thể người Ấn Độ và Trung Quốc cũng cho thấy tỷ lệ kiểu gen khác nhau.
0 Nhận xét