Định nghĩa, nguyên nhân bệnh lý suy thận mạn giai đoạn cuối

 Suy thận mạn là kết quả cuối cùng của các bệnh thận, tiết niệu mạn tính, dẫn đến sự suy giảm dần chức năng thận tương ứng với số lượng nephron bị tổn thương, dẫn đến xơ hóa và mất chức năng không thể phục hồi. Triệu chứng lâm sàng bao gồm giảm dần không thể phục hồi của mức lọc cầu thận, tăng nitơ phi protein máu, rối loạn cân bằng nội môi, và rối loạn chức năng nội tiết của thận. Các triệu chứng trở nên nặng dần theo sự giảm dần của mức lọc cầu thận, cuối cùng dẫn đến suy thận giai đoạn cuối, khi cả hai thận mất hoàn toàn chức năng và cần phải thay thế thận.

Nguyên nhân của suy thận mạn bao gồm:

  1. Bệnh cầu thận nguyên phát:
  • Viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu khuẩn: 5-20% số bệnh nhân sau 15-20 năm phát triển thành suy thận mạn và suy thận giai đoạn cuối.
  • Viêm cầu thận tiến triển nhanh: tiến triển thành suy thận giai đoạn cuối trong vòng 6 tháng.
  • Viêm cầu thận mạn nguyên phát:
    • Bệnh cầu thận tổn thương tối thiểu: 20% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối.
    • Xơ cầu thận ổ đoạn: tiến triển đến suy thận mạn sau 5-10 năm.
    • Viêm cầu thận màng: nếu không điều trị, 20% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối.
    • Viêm cầu thận tăng sinh gian mạch: nếu không điều trị, 10-20% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối.
    • Viêm cầu thận màng tăng sinh (loại 1, 2, 3): Bệnh này chưa có phương pháp điều trị hiệu quả và thường tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối.
  1. Bệnh cầu thận thứ phát:
  • Viêm cầu thận do bệnh hệ thống: lupus ban đỏ hệ thống, viêm mạch máu hệ thống, bệnh xơ cứng bì.
  • Viêm cầu thận do các bệnh gây rối loạn chuyển hóa: đái tháo đường, bệnh thận do bệnh nhiễm bột, đa u tủy xương.
  1. Bệnh ống-kẽ thận:
  • Do nhiễm khuẩn: viêm thận-bể thận mạn, 30% diễn biến thành suy thận mạn.
  • Không do nhiễm khuẩn: viêm thận kẽ do thuốc, do lắng đọng các tinh thể (urat, calci).
  1. Bệnh mạch máu thận:
  • Xơ mạch thận lành tính do tăng huyết áp (THA) hoặc ác tính do THA ác tính.
  • Hẹp động mạch thận.
  • Huyết khối động mạch hoặc tĩnh mạch thận.
  1. Bệnh thận bẩm sinh, di truyền: Chiếm 5-10% số bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối. Bệnh thận đa nang di truyền là phổ biến nhất, chiếm 80% số bệnh nhân suy thận di truyền, cùng với loạn sản thận, hội chứng Alport, hội chứng móng-xương bánh chè, hội chứng thận hư bẩm sinh.

Cơ chế sinh bệnh chủ yếu dựa trên thuyết nephron nguyên vẹn, đó là chức năng thận suy giảm được đóng góp bởi các nephron còn hoặc gần nguyên vẹn. Các nephron này phải gia tăng cả về cấu trúc và chức năng để bù đắp cho sự giảm sút số lượng nephron. Tuy nhiên, áp lực và khối lượng công việc lớn này dẫn đến xơ hóa và mất chức năng của các nephron. Khi số lượng nephron còn chức năng không đủ để duy trì chức năng thận, các triệu chứng suy thận mạn sẽ xuất hiện. Quá trình tiến triển từ bệnh thận mạn tính đến suy thận giai đoạn cuối trung bình kéo dài khoảng 10 năm, nhưng cũng có thể nhanh hơn hoặc chậm hơn tùy thuộc vào nguyên nhân và sự tiến triển nặng của bệnh.

Suy thận mạn được chia thành 5 giai đoạn dựa trên mức lọc cầu thận (GFR) theo phân loại của Hội Thận học Quốc tế (ISN) và Hội Thận học Quốc gia Hoa Kỳ (National Kidney Foundation):

  1. Giai đoạn 1: GFR bình thường hoặc cao, GFR > 90 mL/phút.
  2. Giai đoạn 2: GFR khoảng 60 - 89mL/phút.
  3. Giai đoạn 3: Bao gồm suy thận độ 3A (GFR khoảng 45 - 59 mL/phút) và suy thận độ 3B (GFR khoảng 30 - 44 mL/phút).
  4. Giai đoạn 4: GFR khoảng 15 - 29 mL/phút.
  5. Giai đoạn 5: GFR < 15 mL/phút.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét